Bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia ven biển có bờ biển dài trên 3.260 km, có các vùng biển và thềm lục địa khoảng một triệu km2, gần 3.000 đảo nằm rải rác trên biển Đông từ Bắc chí Nam, bao gồm các đảo ven bờ và hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa nằm giữa biển. Trong 63 tỉnh, thành phố của cả nước thì 28 tỉnh, thành phố có biển và gần một nửa dân số sinh sống tại các tỉnh, thành ven biển. Kinh tế biển và các ngành liên quan đến biển đóng góp lớn vào nền kinh tế đất nước. Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, biển đảo luôn gắn với quá trình xây dựng và phát triển của đất nước và con người Việt Nam. Năm 1994, nước ta đã phê chuẩn và chính thức trở thành thành viên của Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982.
Cũng như các quốc gia ven biển khác, Việt Nam đang phải đối mặt với vấn đề giải quyết tranh chấp trên biển với các quốc gia láng giềng. Liên quan đến vấn để biển đảo, Nhà nước Việt Nam đã ban hành một loạt các văn bản pháp quy liên quan đến quy chế các vùng biển và chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó là tuyên bố năm 1977 về lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Tuyên bố năm 1982 về đường cơ sở của Việt Nam, Luật Biên giới quốc gia năm 2003. Việt Nam cũng đã tham gia Công ước Luật biển năm 1982 của Liên Hợp quốc, một số công ước địa phương khác liên quan đến giao thông hàng hải, an toàn biển và tuyên bố năm 2002 giữa ASEAN – Trung Quốc về ứng xử các bên ở Biển Đông (DOC). Ngày 09/02/2007, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa X) đã thông qua Nghị quyết 09 về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, trong đó xác định: “Nhiệm vụ cơ bản, lâu dài và xuyên suốt là lập chủ quyền đầy đủ, quản lý và bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền tài phán vùng biển, thềm lục địa, hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các quần đảo, đảo khác thuộc chủ quyền của nước ta. Nhiệm vụ trước mắt là phải bảo vệ toàn vẹn chủ quyền và lợi ích quốc gia trên vùng biển, đảo, duy trì hòa bình, ổn định, hợp tác phát triển”.
Bên cạnh đó, ngày 21/6/2012, Quốc hội nước ta thông qua Luật Biển Việt Nam. Đây là bước phát triển mới nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về biển, đảo nước ta. Luật biển gồm 7 chương, 55 điều và có hiệu lực vào ngày 01/01/2013. Luật Biển Việt Nam 2012 đã đề cập một cách toàn diện nhất các hoạt động trên biển đặt dưới sự thống nhất quản lý của Nhà nước, thể hiện Việt Nam là một quốc gia ven biển có trách nhiệm trong việc thực hiện chủ quyền, quyền tài phán trên các vùng biển của mình, phù hợp với Luật pháp quốc tế và lợi ích quốc gia.
I. BIỂN VÀ ĐẢO BỘ PHẬN LÃNH THỔ NGÀY CÀNG QUAN TRỌNG
Việc sử dụng, khai thác biển là truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam. Ngay từ buổi hoang sơ, qua những truyền thuyết của thời đại Hùng Vương (Lạc Long Quân-Âu Cơ, Mai An Tiêm, Tiên Dung-Chữ Đồng Tử...) đã cho thấy nhân dân ta từ lâu đã biết khai thác, sử dụng lợi thế của biển và đảo. Trong quá trình tồn tại và phát triển của lịch sử mấy ngàn năm, dân tộc Việt Nam và các nhà nước kế tục quản lý đất nước luôn có ý thức bảo vệ biên giới lãnh thổ trên đất liền và ngoài biển, thể hiện chủ quyền trên biển và các hải đảo của đất nước mình.
Việt Nam là một quốc gia biển với diện tích vùng biển gấp ba lần diện tích đất liền. Biển của Việt Nam nằm ở phía Tây Thái Bình Dương, giải rộng từ phía Đông đến phía Tây đất nước với nhiều tên gọi khác nhau: biển Đông, Giao Chỉ dương, biển Nam Hải... Biển Đông là biển lớn nhất trong sáu biển lớn của thế giới có diện tích khoảng 3.447.000 km2 tiếp giáp với các nước khác trong khu vực: Malaysia, Indonesia, Philippines, Brunei, Singapore, Thái Lan, Campuchia, đảo Đài Loan và lục địa Trung Quốc.
Biển Đông có tài nguyên biển phong phú và đa dạng, đặc biệt là tài nguyên sinh vật, các đàn cá xuyên biên giới.
Ở biển Đông, Việt Nam có khoảng 3.000 đảo, phân bố không đều, chủ yếu tập trung ở hai khu vực vịnh Bắc bộ và Nam bộ. Những đảo, quần đảo ven biển có dân cư sinh sống như: Cô Tô, Cái Bầu (Quảng Ninh), Cát Bà, Bạch Long Vĩ (Hải Phòng), Hòn Lớn, Hòn Tre (Khánh Hòa), Lý Sơn (Quảng Ngãi), Phú Quý (Bình Thuận), Côn Sơn (Bà Rịa-Vũng Tàu), Phú Quốc, Thổ Chu, Nam Du (Kiên Giang)... Đặc biệt có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm ngoài khơi phía Đông tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Thuận vào đến các tỉnh Nam bộ, bao gồm nhiều đảo nhỏ, nhiều bãi cát ngầm, bãi đá, bãi san hô.
II. CÁC VÙNG BIỂN THUỘC CHỦ QUYỀN QUỐC GIA VEN BIỂN
Trên thế giới ngày nay, các văn bản pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia đã góp phần xây dựng ngày càng hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật điều chỉnh những vấn đề cơ bản về biển và đảo; việc phân định biển, bảo vệ môi trường biển, khai thác tài nguyên biển, giải quyết các tranh chấp biển v.v...
Nếu tính từ đất liền của quốc gia ven biển hướng ra biển khơi, tuần tự có các vùng biển sau đây: nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, biển quốc tế và đáy biển, lòng đất dưới đáy biển quốc tế. Rải rác ven bờ hay ngoài biển khơi có các đảo, quần đảo nhô lên trên mặt nước. Về nguyên tắc, nội thủy và lãnh hải là hai vùng biển thuộc chủ quyền của quốc gia ven biển. Vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa là ba vùng biển thuộc quyền chủ quyền của quốc gia ven biển. Còn lại vùng biển cả xa xôi ngoài phạm vi ấy là biển tự do, không một quốc gia nào có quyền xác lập chủ quyền đối với bất cứ bộ phận nào của biển cả.
1. Nội thủy
“Nội thủy” (còn gọi “vùng nước nội địa”) là vùng nước nằm phía bên trong đường cơ sở để tính chiều rộng của lãnh hải (nói tắt là “đường cơ sở”) và giáp với bờ biển. Đường cơ sở này do quốc gia ven biển quy định vạch ra. Từ đó trở vào gọi là nội thủy, từ đó trở ra gọi là lãnh hải.
2. Lãnh hải
Lãnh hải là lãnh thổ biển, nằm ở phía ngoài nội thủy. Ranh giới ngoài của lãnh hải được coi là đường biên giới quốc gia trên biển.
Công ước quốc tế về Luật biển 1982 quy định chiều rộng lãnh hải của mỗi quốc gia ven biển là 12 hải lý tính từ đường cơ sở. Điều 3 Công ước nêu rõ: “Mỗi quốc gia có quyền định chiều rộng của lãnh hải đến một giới hạn không quá 12 hải lý từ đường cơ sở được xác định phù hợp với công ước này”. Tuyên bố ngày 12-5-1977 của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng quy định: “Lãnh hải của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam rộng 12 hải lý, ở phía ngoài đường cơ sở”.
III. CÁC VÙNG BIỂN QUỐC GIA VEN BIỂN CÓ QUYỀN CHỦ QUYỀN VÀ QUYỀN TÀI PHÁN
Đây là ba vùng biển nằm ngoài lãnh hải, bao gồm vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
1. Vùng tiếp giáp lãnh hải:
Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển nằm ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải. Phạm vi của vùng tiếp giáp lãnh hải không vượt quá 24 hải lý tính từ đường cơ sở. Điều 33 Công ước về Luật biển năm 1982 quy định:“Vùng tiếp giáp không thể mở rộng quá 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải”.Tuyên bố của Chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ngày 12-5-1977 cũng nêu rõ: “Vùng tiếp giáp lãnh hải của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là vùng biển tiếp liền phía ngoài của lãnh hải Việt Nam có chiều rộng là 12 hải lý hợp với lãnh hải Việt Nam thành một vùng biển rộng 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải Việt Nam”.
2. Vùng đặc quyền kinh tế:
Vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển nằm ở ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải, có phạm vi rộng không vượt quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Như vậy phạm vi lãnh hải rộng 12 hải lý bên trong vùng đặc quyền kinh tế nên chiều rộng riêng của vùng đặc quyền kinh tế là 188 hải lý. Vùng đặc quyền kinh tế bao gộp trong nó cả vùng tiếp giáp lãnh hải. Vùng đặc quyền kinh tế là một vùng đặc thù trong đó quốc gia ven biển thực hiện thẩm quyền riêng biệt của mình nhằm mục đích kinh tế được Công ước về Luật biển 1982 quy định.
3. Thềm lục địa:
Thềm lục địa nói nôm na là cái nền của lục địa. Nó bắt đầu từ bờ biển, kéo dài thoai thoải ra khơi và ngập dưới nước, đến một chỗ sâu hẫng xuống thì hết thềm. Thực tế ở nơi nào bờ biển bằng phẳng thì vùng đáy biển này trải ra rất xa. Ở nơi nào bờ biển khúc khuỷu, vùng này co hẹp lại gần bờ hơn (như ven biển miền Trung Việt Nam từ bờ ra ngoài khoảng 50 km (hơn 26 hải lý) thì thụt sâu xuống hơn 1.000 m). Các nhà địa chất học gọi vùng đáy biển thoai thoải đó là thềm lục địa. Vùng đó kéo dài đến đâu thì thềm lục địa của nước đó ra đến đó; không kể độ sâu là bao nhiêu. Vì thềm lục địa là sự mở rộng tự nhiên của lục địa đất liền ra biển, là sự kéo dài tự nhiên của lãnh thổ quốc gia ven biển, cho nên nó thuộc về quốc gia ven biển.
Như vậy thường thì thềm lục địa là phần đáy biển và lòng đất đáy biển nằm dưới nội thủy, lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế của một quốc gia. Có khi thềm lục địa rộng ra đáy biển khơi (trường hợp thềm lục địa rộng hơn 200 hải lý).
IV. ĐẢO VÀ QUẦN ĐẢO
Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển năm 1982 quy định về đảo ở Điều 121, nhưng không có quy định riêng về quần đảo (Phần IV - từ Điều 46 đến Điều 54 - quy định về quốc gia quần đảo chứ không phải quần đảo ngoài khơi thuộc nước lục địa). Theo đó, đảo là một vùng đất tự nhiên có nước bao bọc, khi thủy triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt nước (khoản 1 Điều 121 Công ước).
Quần đảo là một tổng thể các đảo, kể cả các bộ phận của các đảo, các vùng nước tiếp liền và các thành phần tự nhiên khác có liên quan với nhau chặt chẽ đến mức tạo thành về thực chất một thể thống nhất về địa lý, kinh tế và chính trị hay được coi như thế về mặt lịch sử (Điều 46 điểm b).
Về địa lý, có những đảo và quần đảo gần bờ của nước ven biển và cũng có những đảo và quần đảo ngoài biển khơi cách xa lục địa như quần đảo Hoàng Sa cách bờ Việt Nam (Đà Nẵng) khoảng 350 km, quần đảo Trường Sa cách bờ Việt Nam (Cam Ranh) khoảng 460 km.
Việt Nam ở vào vị trí một nước có biển rộng, bờ biển dài, nhiều đảo và quần đảo, tiếp giáp với nhiều nước láng giềng có biển hay không có biển và ở vị trí ngã ba đường hàng hải quốc tế. Quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững biển, hải đảo Việt Nam là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trước mắt và lâu dài, nhằm nâng cao ý thức vươn ra biển, làm giàu từ biển trong cộng đồng người Việt Nam; khẳng định việc thực hiện chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam trên các vùng biển, hải đảo trong khu vực biển Đông. Do đó, mỗi người dân Việt Nam cần hiểu sâu sắc ý nghĩa, tầm quan trọng của biển, đảo trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước; để mỗi công dân Việt Nam thấy được trách nhiệm của mình đối với chủ quyền biển, đảo quốc gia, khơi gợi lòng yêu nước truyền thống của dân tộc, từ đó đoàn kết, chung sức chung lòng, quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Một số hình ảnh về biển đảo Việt Nam:
Hình ảnh đảo Trường Sa
Bảo vệ chủ quyền biển đảo là trách nhiệm của mỗi chúng ta